Thứ Năm, 7 tháng 1, 2016

VÕ CÔNG TRONG THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP

MỘT SỐ MÔN VÕ CÔNG CÓ TRONG TIỂU THUYẾT KIẾM HIỆP: 
THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP
 - KIM DUNG -

Ám Nhiên Tiêu Hồn Chưởng:

Ám Nhiên Tiêu Hồn Chưởng: là loại chưởng pháp kỳ lạ bậc nhất do Dương Quá sáng tạo nên trong 16 năm chờ đợi Tiểu Long Nữ và cũng chỉ có mình Dương Quá sử dụng được. Muốn sử dụng môn võ tương tư sầu khổ vô cùng đau đớn tuyệt vọng. Khi tâm trạng vui vẻ hạnh phúc, vô ưu vô lo thì bộ chưởng pháp này mất đi thần hiệu.
Môn võ này được sáng tạo khi Dương Quá chỉ còn một tay nên lấy nội công làm gốc không dùng các biến hóa đa đoan để thủ thắng. Nhiều chiêu thức trong Ám nhiên tiêu hồn chưởng được bắt nguồn từ các võ công mà Dương Quá đã biết ví dụ như: Cửu Âm Chân Kinh, Nghịch Hành Kinh Mạch.
Ảm nhiên tiêu hồn chưởng có 17 chiêu thức:
1.Tâm Kinh Nhục Khiêu
2. Khởi Nhân Ưu Thiên
 3. Vô Trung Sinh Hữu
4. Đà Nê Đới Thủy
5. Bồi Hồi Không Cốc
6. Lực Bất Tòng Tâm
7. Hành Thi Tẩu Nhục
8. Đảo Hành Nghịch Thi
9. Hồn Dại Mộng Oanh
10. Phế Tẩm Vong Thực
11. Cô Hình Chích Ảnh
12. Âm Hận Thôn Thanh
13. Lục Thần Bất Thân
14. Cùng Đồ Mạt Lộ
15. Diện Vô Nhân Sắc
16. Tường Nhập Phi Phi
17. Ngai Nhược Mộc Kê

Ngọc Nữ Tâm Kinh:

Ngọc Nữ Tâm Kinh là khái niệm võ học trong tiểu thuyết Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung nằm trong bộ Xạ Điêu Tam Bộ Khúc. Ngọc Nữ Tâm Kinh là môn võ công lợi hại nhất của phái Cổ Mộ, theo lời kể của Tiểu Long Nữ thì đây là môn võ công do tổ sư bà bà "Lâm Triều Anh" sáng tạo ra.
Nguyên nhân là do Lâm Triều Anh này từng có một mối lương duyên với tổ sư của phái toàn chân là Vương Trùng Dương, hai người này tuy yêu nhau nhưng không đến được với nhau vì quá nhiều mâu thuẫn, Lâm Triều Anh vừa yêu vừa hận nên đã sáng tác ra Ngọc Nữ Tâm Kinh dựa trên võ công của Toàn Chân Giáo nhưng lại khắc chế hoàn toàn võ công của Toàn Chân Giáo. Ngọc Nữ Tâm Kinh muốn luyện thành phải trải qua 3 giai đoạn:
- Thứ nhất phải luyện hết võ công của Toàn Chân Giáo (Toàn Chân Kiếm Pháp)
- Thứ hai phải luyện hết võ công của phái Cổ Mộ
- Thứ ba mới luyện Ngọc Nữ Tâm Kinh (khi luyện tập phải có người cùng luyện và phải cởi bỏ quần áo trong lúc luyện công do lúc luyện tập khí nóng trong cơ thể phát ra nếu có quần áo khí nóng chạy ngược vào thể nội nhẹ thì tẩu hoả nhâp ma, nặng thì chết ngay tức khắc). Lúc luyện Ngọc Nữ Tâm Kinh chia ra Âm Tiến và Dương Thoái, luyện Dương Thoái thì có thể ngừng lại nghỉ nhưng Âm Tiến thì phải liên tục không được đức quãng nếu không tẩu hoả nhập ma chân khí chạy ngược vào lục phủ ngũ tạng.
Khi luyện thành sẽ có một nội lực thâm hậu, Ngọc Nữ Tâm Kinh đa phần là kiếm pháp, mặc dù nó khắc chế võ công của Toàn Chân Giáo, nhưng lại vừa có thể phối hợp với võ công của Toàn Chân Giáo. Nguyên do là Lâm Triều Anh mặc dù oán hận Vương Trùng Dương nhưng vẫn không quên tình xưa nên đã sáng tạo ra môn võ công dành cho đôi tình lữ. Người nam dùng Toàn Chân Kiếm Pháp phối hợp với Nữ sử dụng Ngọc Nữ Kiếm Pháp trở thành Ngọc Nữ Tố Tâm Kiếm Pháp, hai người kề vai sát chiến, bảo vệ lẫn nhau, vô cùng lợi hại.
Bạn đang xem phim truyện bộ tuyển chọn tại: http://bacnguyena2z.blogspot.com/

Cửu Âm Chân Kinh:

Cửu Âm Chân Kinh (九陰真經) là tên gọi của một bộ võ công lần đầu xuất hiện trong bộ truyện Anh hùng xạ điêu (tiểu thuyết đầu tiên của bộ Xạ điêu tam khúc), qua lời kể của Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông cho Quách Tĩnh nghe lý do tại sao mình bị Hoàng Dược Sư giam giữ trên Đào Hoa đảo. Theo lời kể của Lão Ngoan đồng, người viết nên Cửu Âm Chân Kinh là Hoàng Thường mà nguyên nhân sâu xa là từ những thù oán của Hoàng Thường với giới võ lâm.
Hoàng Thường vốn là một quan văn trong triều dưới thời đại vua Huy Tông triều Tống, theo lệnh của hoàng đế thu thập hết sách của Đạo gia 5481 quyển viết thành bộ sách Vạn thọ Đạo tàng (theo lời Chu Bá Thông thì việc này diễn ra vào năm Chính Hòa thứ năm, vua Huy Tông). Nhờ trí thông minh và kiên trì, Hoàng Thường đã ngộ ra được toàn bộ các bí quyết triết học Đạo gia và trở thành một cao thủ võ lâm. Sau đó, theo lệnh của Huy Tông hoàng đế, Hoàng Thường dẫn quân đến tiêu diệt Minh giáo và quân lính bị đại bại. Tuy nhiên, Hoàng Thường học được toàn bộ bí kíp võ công cao cường nên đánh bại hầu hết các cao thủ Minh giáo, nhưng sau đó vì đơn thương độc mã nên vẫn thất bại, kết quả là toàn bộ gia đình của Hoàng Thường bị sát hại, chỉ một mình Hoàng Thường thoát nạn chạy lên núi ẩn náu quyết rèn luyện võ công cao cường để trả thù.
Sau một thời gian dài tu luyện và ngộ được đạo lý võ học, Hoàng Thường trở lại với ý định trả thù nhưng thời gian đã trôi quá lâu tất cả các đối thủ đều đã qua đời, thậm chí con cái đối thủ cũng đã già nữa, Hoàng Thường hết ý định trả thù, nhưng tiếc những kiến thức võ học Đạo gia mà mình học được viết thành bộ Cửu âm chân kinh gồm 2 quyển: Quyển thượng bao gồm các bí kíp rèn luyện nội công căn bản của Đạo gia, Quyển hạ gồm các chiêu thức khắc địch và bảo vệ thân thể. Sau khi Hoàng Thường qua đời, Cửu âm chân kinh lưu lạc trong nhân gian khiến giới võ lâm tranh đoạt và gây ra sự chém giết để giành lấy bí kíp này.
Trước thời kỳ xảy ra những nội dung chính của câu chuyện trong tiểu thuyết Anh hùng xạ điêu, có năm người võ công cao siêu nhất cùng đấu với nhau trên đỉnh Hoa Sơn để tranh nhau Cửu âm chân kinh gồm Đông Tà Hoàng Dược Sư, Tây Độc Âu Dương Phong, Nam Đế Đoàn Trí Hưng, Bắc Cái Hồng Thất Công, và Trung Thần Thông Vương Trùng Dương. Võ công của Vương Trùng Dương cao nhất và giành được Cửu âm chân kinh. Ông định đốt sách để tránh chuyện tàn sát trong võ lâm, nhưng lại tiếc công người xưa nên giấu quyển sách đi. Trước khi chết, ông đã giao cho Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông là sư đệ của mình đi giấu hai quyển sách ở hai nơi nhằm tránh cho quyển sách rơi vào tay kẻ xấu.
Trên đường đi giấu sách, Lão Ngoan đồng bị vợ Hoàng Dược Sư đánh lừa, dùng trí nhớ siêu phàm đọc lại một lần nhớ hết quyển hạ. Bà về viết lại cho chồng, nhưng Hoàng Dược Sư chưa tu luyện thì bị học trò là cặp vợ chồng Mai Siêu Phong, Trần Huyền Phong lấy trộm quyển hạ trốn đi, luyện ra những võ công âm độc (ví dụ như Cửu âm bạch cốt trảo...). Hoàng Dược Sư nổi giận đánh gãy chân các học trò còn lại và đuổi ra khỏi đảo Đào Hoa. Vợ Hoàng Dược Sư lúc đó mang thai cố gắng nhớ lại viết lại sách cho chồng nên bị kiệt sức và mất sau khi sinh con. Chu Bá Thông thấy vậy đến Đào Hoa đảo đòi sách và đánh nhau với Hoàng Dược Sư, thua trận bị nhốt trong động đá.
Vô tình từ những ân oán giữa Giang nam thất quái và vợ chồng Mai Siêu Phong khiến cho Quách Tỉnh có được nội dung Cửu âm chân kinh phần quyển hạ được ghi lại trên da bụng của Trần Huyền Phong. Khi Quách Tỉnh gặp Chu Bá Thông trên Đào Hoa đảo, Chu Bá Thông đã dạy cho Quách Tĩnh thuộc lòng cả bộ Cửu âm chân kinh và cũng vô tình đó, Chu Bá Thông cũng luyện thành và trở thành một nhân vật võ công cao nhất. Một phần của Cửu âm chân kinh viết bằng tiếng Phạn được Nhất Đăng đại sư dịch lại sang Trung văn. Sau này, Quách Tĩnh trở thành một cao thủ nhờ tu luyện Cửu Âm Chân Kinh.
Khi đến bộ Thần điêu hiệp lữ, Cửu âm chân kinh một lần nữa xuất hiện. Vương Trùng Dương trước khi chết đã ghi lại một phần nội dung Cửu âm chân kinh trong thạch động Hoạt tử nhân mà Dương Quá và Tiểu Long Nữ là hai người có duyên luyện được bí kíp này.
Cửu âm chân kinh được vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung giấu trong kiếm Ỷ Thiên, được Chu Chỉ Nhược luyện tập. Thành tựu nhất trong truyện Ỷ Thiên Đồ Long Ký có lẽ là cô gái áo vàng,hậu nhân của Dương Quá và Tiểu Long Nữ.


NHẠC PHIM: THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP - PHIÊN BẢN 2014:

Di Hồn Đại Pháp:

Theo truyện Anh Hùng Xạ Điêu, Di Hồn Đại Pháp là một trong nhiều môn võ công được ghi lại trong Cửu Âm Chân Kinh.

Đạn Chỉ Thần Công:

Theo truyện Anh Hùng Xạ Điêu, Đàn Chỉ Thần Công là một trong những công phu của Đông Tà Hoàng Dược Sư. Loại công phu này sử dụng nội lực tích tụ vào lòng bàn tay, sau đó dùng ám khí hoặc những viên đá mà bắn ra. Khi bắn ra viên đá mang theo nội lực, nếu đối phương bị bắn trúng sẽ bị thương rất nặng.

Cáp Mô Công:

Theo truyện Anh Hùng Xạ Điêu, Cáp Mô Công là công phu mà Tây Độc Âu Dương Phong nhiều năm khổ luyện. Cáp Mô Công của Âu Dương Phong chuyên lấy tĩnh chế động, y toàn thân vận kình chứa thế, nén khí không phát, chỉ cần địch nhân ra chiêu tấn công sẽ lập tức phát đòn phản kích mãnh liệt không gì bằng.



Đả cẩu bổng pháp:
Đả cầu bổng pháp là một trong những tuyệt chiêu trấn phái của Cái Bang (dùng côn). Song hành cùng đó là "Hàng Long Thập Bát Chưởng". Đả cẩu bổng pháp là bộ bổng pháp (côn, gậy) chỉ có bang chủ đời trước đích thân truyền thụ cho bang chủ đời sau, là một loại Côn pháp chí cao. Từ lâu côn pháp này đã nổi danh nhưng song đến đời Hồng Thất Công, bang chủ thứ 18 của Cái Bang, thì mới thật sự uy trấn giang hồ. Và đến đời Hoàng Dung - con gái của Đông Tà Hoàng Dược Sư thì được biết đến rộng rãi. Bộ bổng pháp này dùng nhu thắng cương bao đời, nên Bang chủ Cái Bang nhờ nó mà nổi danh giang hồ những cao thủ về bộ Côn pháp này có thể kể đến như: Hồng Thất Công, Hoàng Dung, Tống Nguyên Ân (trưởng lão đời thứ 12 của Cái Bang)... Đả Cẩu Bổng Pháp có tổng cộng 36 chiêu, mỗi chiêu có nhiều thức biến hóa khác nhau tạo thành vô số chiêu thức tinh diệu. Đả Cẩu Bổng Pháp được thi triển theo đường lối "Tứ lạng bạt thiên cân" (Bốn lạng bạt ngàn cân), võ công được áp dụng theo 8 chữ khẩu quyết: buộc, đập, trói, đâm, khều, dẫn, khoá, xoay.
Theo khẩu quyết chữ khóa, ngọn bổng hoàn toàn không đưa ngang, cũng không tấn công vào thân thể địch nhân, ngọn bổng hóa thành một bức tường màu xanh, cản trở trước mặt, chỉ cần địch nhân không bước lên một bước thì không việc gì, nếu ra tay công kích sẽ lập tức bị đánh.
Nhà văn Kim Dung có nêu một số chiêu thức của Đả Cẩu Bổng Pháp:
·                 Ác Cẩu Lan Lộ
·                 Áp Kiên Cẩu Bối (khẩu quyết chữ Khoá)
·                 Bát Cẩu Triều Thiên (chữ Khoá)
·                 Bát Thảo Tầm Xà (chữ Đâm)
·                 Bổng Đả Ác Cẩu (chữ Đập)
·                 Bổng Đả Song Khuyển (chữ Đập)
·                 Lục Phản Cẩu Điện (chữ Đâm)
·                 Ngao Khẩu Đoạt Trượng (Cướp gậy từ tay địch nhân)
·                 Phản Lục Cẩu Điện
·                 Phản Tiệt Cẩu Đồn
·                 Tà Đả Cẩu Bối
·                 Thiên Hạ Vô Cẩu (chữ Xoay)

Độc Cô Cửu Kiếm:

Độc Cô Cửu Kiếm (獨孤九劍) là một bí kíp kiếm thuật tối thượng xuất hiện trong bộ Tiếu ngạo giang hồ, bắt nguồn từ nhân vật không xuất hiện mang tên Độc Cô Cầu Bại và có hai nhân vật sử dụng thành thục là Phong Thanh Dương và Lệnh Hồ Xung. Độc cô cửu kiếm được coi là triết lý đặc sắc của Đạo gia đề cao việc sử dụng kiếm thuật một cách linh hoạt theo phương châm "Dùng vô chiêu thắng hữu chiêu".
Độc Cô Cửu Kiếm được tạo ra bởi Độc cô cầu bại, nhân vật chưa bao giờ xuất hiện thật sự trong các tiểu thuyết của Kim Dung, mà chỉ xuất hiện qua các huyền thoại bởi lời kể của các nhân vật khác về một cao thủ có võ công đạt mức lư hỏa thuần thanh do năm xưa tự mình sáng chế để tiêu diệt kẻ thù đã hại chết cha mẹ mình là Bạch Thành Trung, đặc biệt là trình độ kiếm thuật cao siêu không ai địch nổi. Ông ta tung hoành giang hồ suốt một đời mà không từng bị thất bại, không tìm được đối thủ của mình. Ông ta cô độc cho đến chết mà chỉ mong được một lần bại trận bởi đối thủ nên có tên là Độc cô cầu bại. Tuy nhiên, đôi khi cũng có thể hiểu chính những người sử dụng Độc cô cửu kiếm là những "Độc cô cầu bại". Nhân vật Độc cô Cầu bại xuất hiện qua lời kể của Phong Thanh Dương trong tiểu thuyết Tiếu ngạo giang hồ và trong tiểu thuyết Thần điêu hiệp lữ khi con thần điêu (người bạn còn sống sót của Độc cô Cầu bại) đưa Dương Quá đến mộ Độc cô cầu bại và qua đó học được triết lý kiếm thuật của Độc cô. Tuy nhiên, qua miêu tả về kiếm pháp của Dương Quá trong tiểu thuyết Thần điêu đại hiệp và kiếm pháp của Độc cô cửu kiếm trong tiểu thuyết Tiếu ngạo giang hồ, ta có thể rút ra nhận xét đây là hai môn võ công có nhiều điểm khác biệt, thậm chí theo một số nhận xét là hoàn toàn tương phản. Do vậy giả thuyết cho rằng Độc cô cửu kiếm là kiếm pháp đơn thuần được ủng hộ hơn cả.
Theo lời của Phong Thanh Dương, Độc cô cửu kiếm có 9 nguyên lý chính:
·                 Tổng quát thức: Là các quy luật chung, các quy tắc biến hóa trong kiếm thuật: di chuyển, quan sát, tấn công... Các biến hóa trong tổng quát thức dựa trên các quy luật biến hóa của bát quái trong Kinh Dịch với 360 cách biến hóa.
·                 Phá kiếm thức: Là các quy tắc phá kiếm thuật.
·                 Phá đao thức: Các quy tắc tấn công đối thủ dùng đao.
·                 Phá thương thức: Quy tắc tấn công các đối thủ sử dụng thương, giáo, kích, gậy...
·                 Phá tiên thức: Hóa giải cương tiên, thiết giản, điểm huyệt...
·                 Phá sách thức: Phá trường sách, nhuyễn tiên, tam thiết côn, trùy...
·                 Phá chưởng thức: Hóa giải quyền, cước, chỉ, chưởng (võ công sử dụng trực tiếp tay, chân, công lực...)
·                 Phá tiễn thức: Dùng để phá các tên, ám khí.. chẳng những dùng kiếm gạt ám khí mà có thể phản công trở lại. Một minh họa điển hình của chiêu thức này là Lệnh Hồ Xung dù mất hết nội lực vẫn sử dụng một chiêu kiếm xuất thần đâm mù mắt 15 đại cao thủ vây quanh trong miếu Dược Vương.
·                 Phá khí thức: Dùng để hóa giải các đối thủ có nội công thượng thặng.
Trong tiểu thuyết Thần điêu hiệp lữ, Độc cô cầu bại sống cô độc trên núi hoang với con chim điêu, trước khi chết đã chôn các thanh kiếm của mình trong đá với ba triết lý:
·                 Lúc trai trẻ lòng đầy nhiệt huyết mà thiếu sự chín chắn thì sử dụng tử vi kiếm là thanh bảo kiếm sắc, nhẹ và linh hoạt.
·                 Khi trung niên đạt độ chín của suy nghĩ và sức lực, sử dụng thanh kiếm sắt nặng nề mà không sắc bén.
·                 Khi bắt đầu về già, suy nghĩ và kiếm thuật đạt trình độ cao, vũ khí chỉ còn là thanh kiếm gỗ và đạt mức thượng thừa thì không kiếm mà thắng đối thủ, bất cứ thứ gì cũng là kiếm.
Trong tiểu thuyết Tiếu ngạo giang hồ, không ai rõ Phong Thanh Dương học Độc cô cửu kiếm qua người nào, chỉ biết ông ta là một truyền nhân của triết lý Độc cô cầu bại với kiếm thuật Độc cô cửu kiếm thần kỳ tung hoành trên giang hồ khi trai trẻ. Đồng thời, Phong Thanh Dương là người phát triển lý luận của Độc cô cửu kiếm đến trình độ tối thượng: "Chiêu số là phần tĩnh, người phát chiêu mới là động. Chiêu số tĩnh phá giải kỳ tuyệt đến đâu mà khi gặp chiêu số động liền chịu bó tay, vì vậy người học võ luôn cần nghĩ đến chữ động.... Luyện võ và sử chiêu linh động mới chỉ là bước đầu, luyện đến trình độ ra tay không còn chiêu thức mới tiến vào trình độ tuyệt luân. Theo người thì những chiêu luyện tới chỗ tối cao là không tài nào phá giải được. Ý nghĩ đó chỉ đúng có một điểm là chiêu thức dù có cao đến đâu mà để đối phương tìm thấy đường lối là có thể nhận ra kẽ hở phá mình ngay. Còn như đã không có chiêu thức thì địch nhân còn phá vào đâu?". Theo Phong Thanh Dương, kiếm thuật thượng thừa đòi hỏi người sử dụng kiếm sử dụng chiêu thức biến hóa liên tục như nước chảy mây trôi, tùy theo sự thay đổi của đối thủ mà điều chỉnh lại chiêu thức của mình, lấy sự tấn công làm phòng thủ.
Phong Thanh Dương và Lệnh Hồ Xung đã phát huy năng lực của Độc cô cửu kiếm và đã trở thành những cao thủ bất bại trên giang hồ. Theo lý luận của Phong Thanh Dương, Độc cô cửu kiếm tối kị tính học thuộc mà đòi hỏi một chữ Ngộ và khi đó thì dù có quên thì lại càng phát huy khả năng phong phú của kiếm thuật. Và bản thân Phong Thanh Dương cũng đã trở thành một Độc cô cầu bại khi cuối đời ẩn cư một mình trên đỉnh Ngọc Nữ phong hoang vắng trên núi Hoa Sơn và mong chờ được thất bại dưới tay một đối thủ chân chính.
Với những lý luận này, Độc cô cửu kiếm đã thoát ra khỏi sự hạn hẹp của kiếm thuật, mà đã trở thành triết lý sống của Phong Thanh Dương cũng như Lệnh Hồ Xung, và trở thành một triết lý đặc sắc của Tiếu ngạo giang hồ. Triết lý này đề cao sự tự do, sống và hành động linh hoạt phù hợp với các quy luật tự nhiên, phát huy sự sáng tạo và hạn chế sự dập khuôn máy móc.

Hàng long thập bát chưởng:

Hàng long thập bát chưởng là tên một loại tuyệt kỹ võ công xuất hiện trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung,. Được mô tả trong loạt truyện kiếm hiệp gồm Thiên Long bát bộ và Xạ điêu tam bộ khúc (Anh hùng xạ điêu, Thần điêu hiệp lữ và Ỷ thiên Đồ long ký), Hàng long thập bát chưởng là 1 trong 2 tuyệt kỷ của Cái Bang bên cạnh "Đả cẩu bổng pháp".
Đả cẩu bổng pháp là bộ bổng pháp (côn, gậy) chỉ có bang chủ đời trước đích thân truyền thụ cho bang chủ đời sau, còn Hàng long thập bát chưởng thì chỉ có những đệ tử cái bang từ hàng 9 túi trở lên mới được truyền dạy và mỗi người chỉ được dạy một vài chiêu chứ không được học hết cả pho chưởng pháp, ngoại trừ các đồ đệ truyền nhân của bang chủ.
Theo truyện Anh hùng xạ điêu, Hàng long thập bát chưởng đã vang danh thiên hạ từ lâu, song đến đời Hồng Thất Công, bang chủ thứ 18 của Cái Bang, thì mới thật sự uy trấn giang hồ, và đến đời Quách Tĩnh (đồ đệ của Hồng Thất Công) thì được biết đến rộng rãi nhất.
Theo truyện Thiên long bát bộ, trước thời Hồng Thất Công một nhân vật nữa làm cho Hàng long thập bát chưởng đi vào huyền thoại là Tiêu Phong, một nhân tài kiệt xuất của Cái Bang. Với tấm lòng hào hiệp, chính nghĩa, không chịu khuất phục cường địch, Tiêu Phong cùng với Hàng long thập bát chưởng là nỗi khiếp sợ của tà môn ngoại đạo. Trong bản chỉnh sửa mới nhất của Thiên Long Bát Bộ, thì Hàng long thập bát chưởng mới đầu có 28 chiêu là Hàng Long nhị thập bát chưởng. Về sau Tiêu Phong nhận thấy vẫn còn thiếu uy lực, lại có nhiều chiêu lập lại nên đã bổ sung, sửa chữa, rút gọn lại, tạo thành Hàng long thập bát chưởng, đồng thời khiến uy lực của bộ chưởng pháp tăng thêm. Cũng trong bản sửa đổi này thì Tiêu Phong còn nhờ Hư Trúc học Hàng long thập bát chưởng và Đả Cẩu Bổng Pháp với mục đích sau này khi Cái Bang tìm được bang chủ mới thì Hư Trúc sẽ truyền lại võ công cho người đó.
Theo Kim Dung, bộ chưởng pháp này là võ công chí cương của thiên hạ, bao đời Bang chủ Cái Bang nhờ nó mà thành danh giang hồ, uy lực tùy theo người sử dụng. Những cao thủ về môn chưởng pháp này có thể kể là Tiêu Phong, Hồng Thất Công, Quách Tĩnh, Gia Luật Tề, Dương Quá,cũng biết tất cả các chiêu nhưng không thể phát huy uy lực được như Tiêu Phong,Quách Tĩnh và Hồng Thất Công. Về sau Hàng Long thập bát chưởng chỉ còn truyền lại được 12 chiêu như bang chủ Sử Hoả Long (Ỷ Thiên Đồ Long Ký) luyện nhưng không ai có được thành tựu cao, vật đổi sao dời, Hàng long thập bát chưởng cũng theo đó mà thất truyền cùng với sự suy vi của Cái Bang.Trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký,một lần nữa Hàng long thập bát chưởng được Tống Thanh Thư tái xuất do Chu Chỉ Nhược đã lấy ra từ Ỷ Thiên Kiếm đưa cho Tống Thanh Thư tập để đối phó Trương Vô Kỵ.
Chiêu thức của bộ chưởng pháp này bao gồm:
1.     Phi long tại thiên 飛龍在天 hào Cửu ngũ của quẻ Kiền, có nghĩa: "rồng bay lên trời". Khí dương đã phát huy rực rỡ, hoặc con người đã khai mở được bản tâm để phát huy diệu dụng.
2.     Kiến Long Tại Điền 見龍在田 lời hào Cửu nhị của quẻ Kiền, có nghĩa là: "con rồng đã hiện ra trên mặt ruộng". Lúc này khí dương bắt đầu được khai mở.
3.     Hồng Tiệm Vu Lục 鴻漸於陸 lời hào Cửu tam quẻ Tiệm, có nghĩa "con chim hồng dần bay đến đậu trên gò đất". Quẻ Tiện còn có tên là Phong sơn tiệm, do được tạo thành bởi quẻ Cấn (là núi) ở dưới và quẻ Tốn (là gió) ở trên. Ý nghĩa tượng trưng của Hồng tiệm vu lục là hào Cửu tam có vị trí trên cùng của quẻ Cấn, là hào dương xử ở ngôi dương, cương kiện năng tiến, do đó mới có tượng "con chim hồng dần bay lên đậu trên gò đất".
4.     Tiềm Long Vật Dụng 潛龍勿用 lời hào Sơ cửu của quẻ Kiền, có nghĩa là: "như con rồng còn đang ẩn náu; không nên dùng". Khi khí dương còn đang tiềm tàng, hoặc bản thể của tâm chưa được phát lột thì không nên hành động.
5.     Kháng Long Hữu Hối 亢龍有悔 lời hào Thượng cửu của quẻ Kiền, có nghĩa: "Rồng bay cao quá ắt sẽ hối hận". Hào dương ở ngôi cao nhất của quẻ thuần dương, như để tâm chìm đắm vào chỗ lưu đãng, hư huyền xa rời mất cõi nhân sinh, ắt sẽ hối hận. Dùng Cang long hữu hối phải có phát có thu, lực đánh ra 10 phần, lưu lại 20 phần, có phát có thu
6.     Lợi Thiệp Đại Xuyên  涉大川 có nghĩa: "có lợi trong việc lội qua sông lớn", đây là lời thường dùng trong các quái từ, hào từ của Kinh Dịch. "Đại xuyên" là sông lớn, thường được dùng để ví với sự gian nan hiểm trở.
7.     Đột Như Kỳ Lai 突如其來 lời hào Cửu tứ quẻ Ly, có nghĩa: "thình lình ập tới". Trong hào Cửu tam thì sự đe dọa đã bắt đầu hiện ra dưới hình thức ngọn cầu vồng lấn át ánh nắng chiều, và đến hào Cửu tứ thì đột ngột chuyển thành hiện thực.
8.     Chấn Kinh Bách Lý 震驚百里 lời quái từ và lời thoán truyện của quẻ Chấn, có nghĩa: "tiếng sấm động vang xa hàng trăm dặm".
9.     Hoặc Dược Vu Uyên 或躍於淵 hào Cửu tứ của quẻ Kiền, có nghĩa: "hoặc nhảy vào vực thẳm". Đây là bước rẽ quyết định, con người từ bỏ thế giới rạch ròi của lý trí để đi vào thế giới huyền vi của tâm thức.
10.  Song Long Thủ Thủy 雙龍取水 Chúng tôi chưa tra cứu được xuất xứ, có lẽ tác giả chỉ thuận tay dùng các thành ngữ quen thuộc trong kho tàng văn học Trung Quốc mà đặt tên, theo kiểu các chiêu "Giao long hỷ thủy", "Lưỡng long tranh châu"... thường gặp các tiểu thuyết võ hiệp chứ không phải là câu được chọn ra từ Kinh Dịch.
11.  Ngư Dược Vu Uyên 魚躍於淵
12.  Thời Thừa Lục Long 時乘六龍
13.  Mật Vân Bất Vũ 密雲不雨 Thanh phong từ lai, bái nhiên hữu vũ
14.  Tổn Tắc Hữu Phu 損則有孚
15.  Long Chiến Vu Dã 龍戰於野 lời hào Thượng lục của quẻ Khôn có nghĩa: "rồng đánh nhau nơi hoang dã". Âm đã đến lúc cực thịnh nên tranh nhau với Dương.
16.  Lữ sương băng chí 履霜冰絰 Sơn vũ dục lai, lữ sương băng chí, tên đầy đủ là "lữ sương, kiên băng chí", lời hào Sơ lục quẻ Khôn, có nghĩa: "dẫm trên sương, thì biết băng dày sắp đang tới". Đây là tượng của khí âm mới sinh.
17.  Đê Dương Xúc Phiên 羝羊觸藩
18.  Thần Long Bãi Vĩ 神龍擺尾 Nguyên trong Kinh Dịch không có câu này, mà chỉ có câu "Lý hổ vĩ, điệt nhân, hung" của hào Lục tam quẻ Lý, có nghĩa "đi sau cọp, đạp đuôi cọp, bị nó quay lại cắn, nguy hiểm". Kim Dung giải thích tên chiêu này được lấy từ câu trên, để tả khí thế mạnh mẽ và hung dữ của chiêu thức. Người đời sau thấy chữ "hổ" không hợp trong môn chưởng pháp "hàng long" nên đổi thành "Thần long bãi vĩ"

Không Minh Quyền:

Theo truyện Anh Hùng Xạ Điêu, Không Minh Quyền là quyền thuật chí nhu trong thiên hạ. Chu Bá Thông, trong động trên đảo Ðào Hoa, mười lăm năm, sáng chế Không Minh Quyền theo Đạo Đức Kinh. Trong Đạo đức kinh có câu:
- Binh mạnh ắt sẽ bị diệt, gỗ cứng ắt sẽ bị gãy. Cứng mạnh ở dưới, mềm yếu ở trên.
Lại nói:
- Trong thiên hạ không gì mềm yếu bằng nước, nhưng vật gì cứng mạnh cũng không thắng được, không gì chuyển dịch được. Yếu thắng mạnh, nhu thắng cương, thiên hạ ai cũng biết nhưng không ai làm được.
Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông đem bảy mươi hai lộ Không Minh Quyền giảng giải cho Quách Tĩnh:
- Lộ thứ nhất Không Uyển Thịnh Phạn
- Lộ thứ hai Không Ốc Trú Nhân
-...
Mười sáu chữ khẩu quyết là
- Không mông động tùng (Tùng là lúc ra quyền thì lực đạo phải trống rỗng, không tốn một chút sức lực nào, nếu tốn sức thì lại không được)
- Phong thông dung mộng (Mộng là quyền chiêu phải mờ mịt),
- Xung cùng trung lộng,
- Đồng dung cung trùng (Trùng là thân hình phải mềm nhuyễn như con sâu)
Yếu quyết Không Minh Quyền vốn là
- Nhờ rỗng mà sáng
- Cương thì không lâu
- Nhu thì khó giữ
Bạn đang xem phim truyện bộ tuyển chọn tại: http://bacnguyena2z.blogspot.com/

Thiên Cang Bắc Đẩu Trận:

Theo truyện Anh Hùng Xạ Điêu, Thiên Cang Bắc Đẩu Trận là công phu huyền môn bậc nhất của phái Toàn Chân, bảy người ngồi theo hình thể chòm sao Bắc Đẩu.
Trung Thần Thông Vương Trùng Dương vì trận pháp này tốn rất nhiều tâm huyết, sức yếu lấy nó để liên thủ hợp kích thì cũng hóa thành mạnh, có thể dùng trong chiến trận. Lúc nghênh địch chỉ đánh một tay, một tay đặt lên vai người bên cạnh. Công lực của bảy người hợp lại làm một.Mấy người xông vào tấn công thì người bị tấn công trước mặt không cần ra sức đỡ gạt, mà do đồng đạo hai bên phản công, như một người gồm được cả võ công của mấy người, quả thật oai lực không sao chống được.
Trong Toàn Chân Thất Tử thì Mã Ngọc ngồi chỗ sao Thiên Khu, Đàm Xử Huyền ngồi chỗ sao Thiên Toàn, Lưu Xử Huyền ngồi chỗ sao Thiên Cơ, Khưu Xử Cơ ngồi chỗ sao Thiên Quyền, bốn người hợp thành lòng gáo.
Vương Xử Nhất ngồi chỗ sao Ngọc Hành, Hách Đại Thông ngồi chỗ sao Khai Dương, Tôn Bất Nhị ngồi chỗ sao Dao Quang, ba người hợp thành chuôi gáo.
Trong bảy sao Bắc Đẩu thì sao Thiên Quyền có độ sáng thấp nhất, lại là chỗ lòng gáo nối với chuôi gáo, rất là xung yếu, vì vậy do Khưu Xử Cơ võ công cao cường nhất trong thất tử trấn giữ.
Trong chuôi gáo thì sao Ngọc Hành làm chủ, nên lấy Vương Xử Nhất võ công đứng thứ hai đảm nhận.
Nhờ vào Trận Thiên Cang Bắc Đẩu, Toàn Chân Thất Tử đấu ngang sức với Đông Tà Hoàng Dược Sư.

Đào Hoa Lạc Anh Chưởng:

Theo truyện Anh Hùng Xạ Điêu, Lạc Anh kiếm pháp là một bộ kiếm pháp của một môn phái mà trước kia Đông Tà Hoàng Dược Sư theo học. Đông Tà trước khi lấy mẹ của Hoàng Dung đã từng có một người yêu đó là con gái của sư phụ mình,do có mâu thuẫn với sư phụ của mình,nên sư phụ ông không gã con gái mình cho Đông Tà,vì quá buồn nên cô con gái của sư phụ Đông Tà đã tự sát, Đông Tà trong lúc giận dữ đã xóa sổ môn phái mà mình đã theo học, và lấy bộ kiếm pháp Lạc Anh làm võ thuật riêng của mình. Trong bản sửa đổi năm 2003, Kim Dung đã đổi tên Lạc Anh Thần Kiếm Chưởng thành Đào Hoa Lạc Anh Chưởng

0 nhận xét:

Đăng nhận xét